Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản – Phần 3

Chẩn đoán Chẩn đoán GERD có thể được thực hiện dựa trên các triệu chứng ợ nóng và trào ngược mà không cần đến xét nghiệm chẩn đoán. Các biến chứng của GERD bao gồm chợt thực quản, hẹp thực quản, Barrett thực quản, và ung thư tuyến niêm mạc thực quản. Xuất huyết mơ hồ, mạn tính cũng như xuất huyết rõ ràng cũng có thể do viêm loét thực quản. Một loạt các triệu chứng ngoài thực quản có thể liên quan đến GERD, bao gồm ho kéo dài, viêm thanh quản mạn tính, hen suyễn, và xói mòn răng. Nội soi tiêu hóa trên nên được xem xét ở những bệnh nhân bị nghi ngờ GERD với những triệu chứng báo động (khó nuốt, giảm cân đáng kể, thiếu máu, hoặc có dấu hiệu xuất huyết tiêu hóa) hoặc không đáp ứng với thuốc ức chế bơm proton (PPI) và điều trị theo kinh nghiệm. Đo áp lực thực quản rất hữu ích trong việc đánh giá bệnh nhân nuốt khó hoặc đau ngực không điển hình ở những người không đáp ứng với điều trị PPI. Theo dõi pH dạ dày bằng catheter có thể giúp ích trong việc đánh giá những bệnh nhân không đáp ứng với liều PPI hai lần mỗi ngày. Chẩn đoán gián biệt Chẩn đoán phân biệt với các triệu chứng điển hình của GERD Viêm thực quản tăng bạch cầu ái toan:
  • Các triệu chứng nuốt khó, ợ nóng, và/ hoặc sự ảnh hưởng của thức ăn
  • Sinh thiết thực quản > 15 bạch cầu ái toan
Viêm thực quản do thuốc:
  • Đau ngực  khởi phát đột ngột, dữ dội và hoặc sau khi nuốt
  • Chẩn đoán xác định bằng nội soi
Ợ chức năng: Ợ nóng rát mà không có bằng chúng của axit trào ngược và giảm nhu động thực quản Rối loạn nhu động thực quản:
  • Nuốt khó hoặc kết hợp với khó chịu ở ngực
  • Chẩn đoán bằng cách đo áp lực thực quản
Hội chứng nhai lại:
  • Nhai lại do thức ăn không tiêu hóa được, tiêu hóa lại sau
  • Không buồn nôn, ợ nóng, đau bụng
  • Chẩn đoán lâm sàng dựa trên tiến sử của cá nhân
Liệt dạ dày
  • Liệt dạ dày
  • Ttrào ngược thức ăn không tiêu hóa
  • Sau bữa ăn buồn nôn và / hoặc nôn
  • Chậm vơi dạ dày
Triệu chứng tiêu biểu Ợ nóng, được định nghĩa là sự nóng rát sau xương ức, là triệu chứng điển hình nhất của GERD. Ợ, định nghĩa là sự nhận thức sự trào ngược dịch hoặc thức ăn đi về phía cổ họng hoặc miệng, cũng là triệu chứng đặc trưng của GERD. Mặc dù GERD là nguyên nhân phổ biến nhất của chứng ợ nóng, một loạt các bệnh lý khác cũng có thể gây nên bệnh cảnh lâm sàng tương tự (xem bảng Chẩn đoángián biệt). Chẩn đoán lâm sàng Tiến sử và thăm khám thực thể Các triệu chứng của GERD có thể được gây nên bởi cách bệnh nhân ăn uống, tập thể dục, hoặc nằm nghiêng. Ngoài ợ nóng và trào ngược, khó chịu vùng thượng vị, rối loạn giấc ngủ, và đau ngực là những biểu hiện khác của trào ngược dạ dày điển hình. Triệu chứng ngoài thực quản biểu hiện của GERD bao gồm ho, viêm thanh quản, co thắt phế quản, và xói mòn răng. Khám thực thể ít có vai trò trong đánh giá bệnh nhân nghi ngờ GERD. Các phòng thí nghiệm và các xét nghiệm chẩn đoán PPI “test” được thực hiện bằng cách dùng liều chuẩn của PPI hai lần mỗi ngày trong 7-14 ngày và đánh giá đáp ứng điều trị, thường là giảm chứng ợ nóng. Đáp ứng của 50% và 75% đã cho kết quả tích cực.Các báo cáo về độ nhạy và độ đặc hiệu của thử nghiệm này là 80% và 74%, tương ứng. Chụp Baryte thực quản có vai trò hạn chế trong việc đánh giá các biến chứng của GERD. Nội soi thực quản – dạ dày – tá tràng (EGD) rất ích trong chẩn đoán các biến chứng của trào ngược: viêm chợt thực quản, loét xuất huyết, Barrett thực quản, hẹp, và ung thư biểu mô tuyến. Chỉ < hơn 50% bệnh nhân có triệu chứng GERD điển hình có bằng chứng loét niêm mạc trên nội soi. Sinh thiết nội soi nên hướng vào các vùng niêm mạc bất thường và nghi ngờ chuyển sản hoặc loạn sản. Ngoài ra, niêm mạc có vẻ như bình thường cũng nên được sinh thiết để đánh giá tình trạng tăng bạch cầu eosin. Đo áp lực thực quản ít có vai trò trong đánh giá GERD. Nó được sử dụng để xác định vị trí của đầu dò pH so với các cơ thắt thực quản dưới và có thể có ích trước khi điều trị phẫu thuật chống trào ngược. Theo dõi pH có thể được thực hiện bằng cách sử dụng viên nang đo pH không dây hoặc một hệ thống catheter. Kiểm tra pH thực quản chủ yếu được chỉ định ở những bệnh nhân bị trào ngược có hình ảnh âm tính trên nội soi ở những người không đáp ứng với thử nghiệm PPI.Trong bối cảnh này, độ nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm pH là 0-71% và 85-100%, tương ứng. Sử dụng ánh sáng trở kháng đa kênh (MII) có thể được kết hợp với kiểm tra pH thực quản để phát hiện tình trạng có hay không trào ngược axid. Không trào ngược acid có thể là một nguyên nhân quan trọng của các triệu chứng ở những người có triệu chứng trào ngược không đáp ứng điều trị PPI. Những sai sót có thể mắc phải khi chẩn đoán Triệu chứng ợ nóng và trào ngược có thể do những rối loạn thực quản khác, chẳng hạn như co thắt tâm vị, ợ nóng chức năng, và viêm thực quản tăng bạch cầu eosin, bên cạnh trào ngược axid. Những bệnh nhân có triệu chứng mà không đáp ứng hoàn toàn với điều trị ức chế tiết axid nên được đánh giá thêm. Khó chịu ở ngực trở nên nặng lên khi đánh giá test gắng sức có thể do trào ngược acid, bệnh động mạch vành, hoặc cả hai. Đánh giá tình trạng tim mạch có thể thích hợp ở những bệnh nhân nghi ngờ trước khi kết luận rằng các triệu chứng này là từ thực quản. Sơ đồ chẩn đoán cho bệnh nhân có triệu chứng  gerd1 Bệnh trào ngược dạ dày. Được xem có triệu chứng GERD: Có triệu chứng cảnh báo: EGD Không có triệu chứng cảnh báo: PPI một lần mỗi ngày (6-8 tuần) Nếu đáp ứng không đầy đủ:Chuyển sang PPI khác hoặc tăng liều gấp đôi hàng ngày (6-8 tuần) Nếu vẫn đáp ứng không đầy đủ:EGD, MII + test pH
 4 Tháng Hai, 2016    admin